Results

#1. Ai là người ký sắc lệnh thành lập các quân khu năm 1957?

Sắc lệnh số 017/SL thành lập các quân khu:

Ngày 3 tháng 6 năm 1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 017/SL thành lập các quân khu: Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tả Ngạn, Hữu Ngạn, Quân khu 4. Nhiệm vụ của Quân khu 4 được xác định: Phụ trách toàn bộ công cuộc phòng thủ tác chiến trong quân khu; lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng thường trực, hậu bị, dân quân tự vệ về xây dựng và tác chiến; chịu trách nhiệm mọi mặt công tác quốc phòng trong phạm vi quân khu.

Các đồng chí Nguyễn Đôn được cử giữ chức Tư lệnh, Chu Huy Mân – Chính ủy, Lê Nam Thắng – Tham mưu trưởng.

Cơ quan quân khu bước đầu gồm có: Phòng Tham mưu, Phòng Hậu cần, Phòng Chính trị. Lực lượng chủ lực của quân khu gồm ba trung đoàn độc lập (269, 270, 271), ba tiểu đoàn bảo vệ bờ biển (499, 500, 501), bốn tiểu đoàn biên phòng (923, 925, 927, 929)(1). Thời gian này, Quân khu được bổ sung Trung đoàn 120 bộ đội Tây Nguyên tập kết và Tiểu đoàn 323 đặc công. Tổng quân số chủ lực toàn quân khu là 13.356 người. Lực lượng vũ trang địa phương gồm 18 đại đội, hai trung đội và 12.000 dân quân.

Sau khi thành lập, Quân khu nhanh chóng tổ chức, bố trí lực lượng phù hợp với đặc điểm, tình hình và nhiệm vụ của từng khu vực trên địa bàn. Trung đoàn 270, làm nhiệm vụ phòng thủ tại giới tuyến. Do yêu cầu nhiệm vụ phòng thủ giới tuyến, ngay từ tháng 4 năm 1956, trung đoàn được thay đổi toàn bộ vũ khí trang bị. Trung đoàn 269, đứng chân ở Hà Tĩnh, Trung đoàn 271 đứng chân ở Quảng Bình làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa. Bốn tiểu đoàn biên phòng chốt giữ vị trí cửa khẩu bốn đường giao thông qua Lào. Tiểu đoàn 923 ở đường 217, Tiểu đoàn 925 ở đường số 7, Tiểu đoàn 927ở đường số 8, Tiểu đoàn 929 ở đường số 12. Tháng 8 năm 1956, các tiểu đoàn bảo vệ bờ biển 500, 501, 499 đưa năm đại đội ra canh giữ các đảo: Mê, Mắt, Ngư, Cồn Cỏ.

Previous
Finish

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *